Cuốn sách này rất yếu. Ảnh: fauneandfloraofvietnam .
Theo TS Võ Văn Chi, tác giả cuốn Từ điển Cây thuốc Việt Nam, cuốn có tên khoa học là Selaginella fineatula Alston, thuộc họ Selaginella. Là loại cây thân thảo, có thể mọc thẳng đứng, cao từ 30 đến 50 cm, bộ rễ chắc.
Yếu lý mọc ở rừng ẩm, chân núi đá vôi ẩm, bụi rậm hoặc bờ lạch cao 300 m, cao hơn 1000 m so với mực nước biển. Loài cây này phân bố rộng khắp từ miền xuôi đến miền xuôi trên cả nước. Một số nước cũng có cây này như Ấn Độ, Nêpan, Trung Quốc, Malaixia, Inđônêxia, Philippin … Đông y dùng toàn cây làm thuốc, thu hái quanh năm, loại bỏ tạp chất rồi phơi khô lấy nước dùng. Khi sử dụng rửa sạch, cắt nhỏ. Cây có ưu điểm vị nhạt, đắng, tính hàn, tác dụng thanh nhiệt giải độc thấp. Nó thường được sử dụng để điều trị các bệnh thời thơ ấu như động kinh và bệnh sởi. Nó cũng được sử dụng để điều trị ung thư, viêm phổi, viêm amiđan, viêm kết mạc và viêm vú. Liều lượng là 10-30g.
Lương y Võ Văn Chi đề xuất các bài thuốc sau đây từ sách Yếu chỉ:
Viêm gan cấp, thống phong
– Sách yếu, cỏ seo gà, hương phụ mỗi vị 30 gam. Đun sôi nước. – 30 gam thịt nạc, hạt đậu mắt tôm, cúc ngựa (cúc con), me chua vàng, các vị mỗi vị 15 gam. Nước sôi. Nếu bạn có bí ngô, hãy thêm 10 gam xăng hoặc đại hoàng. Nếu chỉ số men gan giảm từ từ thì thêm 10 gam mật nhân tươi hoặc 120 gam cỏ nhọ nồi, sắc uống.
– Đậu hà lan, đậu mắt tôm, cúc tần, thục địa, kim châm, mỗi vị 30 g. Nước ăn được.
Viêm gan cấp tính, vàng da, viêm gan dai dẳng
30 gam yếu ớt, 15 gam đậu mắt tôm, 10 gam hoa cúc non. Đun sôi tất cả nước và uống với đường. Đối với bệnh xơ gan, một quả nho dại và 30 gam quả hồng táo. Tất cả các đầu bếp đều uống nước.